Có xã hội nào hưng thịnh, phát triển hài hoà mà không gắng sức dựng xây và cậy nhờ nền giáo dục?
Nghề cao quý nhất?
Nghề dạy học là nghề cao quý trong những nghề cao quý. Xã hội bấy lâu vẫn mặc định thế.
Có ai có thể kể hết mọi nghề trong xã hội? Có ai chứng minh có một nghề nào đó thấp hèn?
Bằng trí tuệ, mồ hôi, sức lực để làm ra sản phẩm có ích cho xã hội, giúp bản thân mình tồn tại, suy cho cùng, không có nghề nào là nghề không cao quý.
Cách đánh giá có tính mặc định về nghề dạy học mang nặng lối tư duy kín kẽ, vừa lòng hết thảy mọi giai tầng xã hội, trong thực tế, đã dẫn dắt cách ứng xử không mấy tích cực. Một khi chỉ là nghề cao quý trong những nghề cao quý, thì vị thế người thầy trong xã hội sẽ không hơn nghề khác bao nhiêu. Một khi chỉ là nghề cao quý trong những nghề cao quý, mà nghề cao quý thì có hàng trăm, hàng nghìn, thì làm sao có sự đầu tư hơn hẳn cho nghề thầy, người thầy?
Cần có một cái nhìn thật sự nghiêm túc về người thầy, về nghề dạy học.
Nghề dạy học là nghề khai tâm, khai trí, khai đức, đào tạo nên con người, được ví von hình ảnh, là nghề “trồng người”. Dân gian bao đời đã khái quát: “không thầy đố mày làm nên”. Xã hội tồn tại, tiếp nối, phát triển liền mạch, là nhờ ở giáo dục, nhờ người thầy. Cũng từ lâu rồi, xã hội nhìn nhận nghề dạy học là nghề thầm lặng, nhiều hy sinh, người làm nghề dạy học chẳng khác người chèo đò, cần mẫn đưa hết lớp học trò này đến lớp học trò khác, qua khúc sông kiến thức, cập bến bờ trí tuệ, thành người tử tế, chững chạc bước vào đời.
Có ai lớn khôn, trưởng thành mà không cần đến người thấy?
Có xã hội nào hưng thịnh, phát triển hài hoà mà không gắng sức dựng xây và cậy nhờ nền giáo dục?
Không có gì phải đắn đo khi nói rằng, nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Người thầy, người giữ lửa, truyền nghề, xứng đáng có vị thế “quốc sư”, được xã hội tôn vinh.
Hình ảnh người thầy đang nhạt nhoà…
Nhưng, trong thực tế, hình ảnh người thầy đang có phần nhạt nhoà, thậm chí là méo mó, trong cái nhìn, tất nhiên, chưa phải của toàn bộ xã hội.
Trước hết là trình độ, năng lực người thầy.
Mấy thập kỷ qua, đất nước đổi mới, gặt hái nhiều thành tựu, nhưng vẫn chưa thể “xếp vào ngăn kéo” cái câu “chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”. Không phải học sinh có học lực khá giỏi vào trường sư phạm, mà ngược lại, nhiều năm qua, điểm thi đầu vào các trường đào tạo nên người thầy, thấp đến mức không tin nổi. Thầy yếu, làm sao chuyển hóa kiến thức sách giáo khoa? Làm sao giảng dạy sáng tạo? Làm sao có được trò giỏi? Và như thế, làm sao không khiến xã hội số cái nhìn khác về vai trò người thầy?
Thứ nữa, tư thế người thầy….
Sinh viên sư phạm tốt nghiệp ra trường, muốn có nơi dạy phải chạy chọt, đút lót để có chỗ đứng trên bục giảng. Người thầy, như thế, còn đâu tư thế đàng hoàng, đĩnh đạc? Đồng lương nghề giáo quá khiêm tốn so với như cầu cuộc sống bình thường khiến nhiều giáo viên phải làm thêm những công việc không phù hợp với tâm thế nghề nghiệp, thậm chí nhếch nhác, trái với lương tâm, đạo đức người thầy. Hội chứng quá coi trọng bằng cấp, coi nhẹ thực học thực tài, khiến nạn buôn bán bằng giả, nạn học giả bằng thật, tràn lan, dù lỗi không hoàn toàn thuộc về người thầy, nhưng dường như người thầy và ngành giáo dục phải hứng chịu hậu quả: Cái nhìn rẻ rúng về vị thế người thầy, về giáo dục.
Nâng cấp hình ảnh người thầy, bắt đầu từ đâu?
Phải có bước đi đột phá, từ tư duy đến cơ chế chính sách..
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, hơn thế, trong vận dụng chính sách đầu tư, giáo dục phải được ưu tiên là đầu tiên, số 1. Phải dành những gì tốt nhất cho giáo dục và người thầy. Mang trọng trách đào tạo con người, nguồn nhân lực cho phát triển, giáo dục xứng đáng được thế.
Việc xây dựng cơ chế chính sách cần hướng tới nâng cấp hình ảnh, vị thế người thầy, xoá đi cái định kiến thâm căn cố đế “chuột chạy cùng sào”….Bắt đầu bằng việc thu hút người tài vào ngành sư phạm. Ví dụ: Cải cách thang bậc lương trong ngành giáo dục, tương tự các ngành thuộc khối nội chính. Ví dụ: Sinh viên trường sư phạm được cấp học bổng, được ở ký túc xá không mất tiền; ra trường được phân công công tác. Ví dụ: Sắp xếp lại hệ thống trường sư phạm trong cả nước, hình thành trung tâm đào tạo giáo viên theo vùng, thực hiện đào tạo có địa chỉ, theo kế hoạch…
ước nữa, là xây dựng cơ sở vật chất trường học, bất kể thành phố hay nông thôn, vùng núi cao hay hải đảo, sao cho “trường ra trường, lớp ra lớp”, tạo dựng môi trường giáo dục trong lành, để “thầy ra thầy, trò ra trò”, “dạy ra dạy, học ra học”.
Đi liền với cơ chế chính sách là tiền, chắc chắn là không nhỏ. Nhưng một khi cả hệ thống chính trị có chung nhận thức đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, đem lại hiệu quả lâu bền nhất, thì tiền không còn là vấn đề lớn. Chỉ cần bớt đi những dự án, đề án nghìn tỷ thấy trước sự vô lý và không hiệu quả; những dự án quảng trường, tượng đài, trung tâm hội nghị phô trương hình thức, sẽ có đủ tiền cho việc nâng cao vị thế nhân vật trung tâm của sự nghiệp “trồng người”.
Theo TuanVietnam – Uông Ngọc Dậu